Đề bài: Phân tích 8 câu đầu bài thơ”Việt Bắc”
Bài làm
Chiến tranh đã mang đến cho con người biết bao mất mát, hy sinh, niềm đau và nước mắt. Đó là điều mà ai cũng có thể cảm nhận được. Thế nhưng, chính những gian nan ấy cũng là nền tảng và đòn bẩy để những tình cảm thiết tha, chân thành có cơ hội được bộc lộ. Trong đó, tình quân nhân là một loại tình cảm cao đẹp và thiêng liêng được xuất phát từ chính tấm lòng của người lính và nhân dân nơi họ đặt chân đến. Bài thơ “Việt Bắc” là một khúc ca dạt dào tình cảm của kẻ ở, người đi trong một cuộc chia ly đầy nghẹn ngào và xúc động.
Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc thu đông giành thắng lợi vẻ vang, toàn bộ cơ quan đầu não phải rời căn cứ để xuống xuôi tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác để bày tỏ nỗi niềm lưu luyến và thiết tha của những người lính cũng như nhân dân vùng núi rừng Việt Bắc. Tám câu thơ đầu của “Việt Bắc” là sự bày tỏ rõ ràng và sâu sắc nhất cảm xúc của những người có mặt trong cuộc chia ly ấy.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chân thành, thấm đượm tình cảm.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tah mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Phân tích tám câu thơ đầu bài Việt Bắc
Chỉ tám câu thơ mà có tận bốn chữ nhớ cũng đủ để nói lên nỗi nhớ ấy da diết biết chừng nào. Nhà thơ dùng “mình-ta” để xưng hô như cách mà những người vợ, người chồng hay những người thân thiết gọi nhau. Nhân dân và người lính Việt Bắc, qua những năm tháng gắn bó, chiến đấu cùng nhau mà tình cảm của họ cũng mặn nồng, sâu sắc như người thân trong gia đình. Nhà thơ sử dụng lối hát giao duyên như trong ca dao truyền thống để tạo nên một không khí gần gũi, thân thương và dễ đi vào lòng người. “Mình về mình có nhớ ta” là câu hỏi mà người ở lại giành cho kẻ ra đi. Câu hỏi ấy thực ra cũng chẳng cần phải trả lời. Người ở lại như muốn hỏi chính mình, liệu rằng những người chiến sĩ ấy khi về suôi thì có còn nhớ về núi rừng, về cuộc sống nơi bản nhỏ. Mười lăm năm, một quãng thời gian dài đằng đẵng của những năm kháng chiến. Chính trong thời gian ấy, nhân dân và người lính đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau, chia sẻ và bảo vệ nhau trước những khó khăn, nguy hiểm của cuộc sống. Người lính về xuôi, liệu rằng khí nhìn cây, nhìn sông họ có nhớ đến rừng núi chập chùng, có nhớ đến nguồn nước từ trên cao đổ xuống. Những kỉ niệm của mười lăm năm gắn bó liệu có còn vương lại trong lòng họ hay không? Người dân Việt Bắc cứ tự đặt ra câu hỏi ấy, vừa để tỏa nỗi nhớ, vừa để thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn và lòng yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Sau nỗi nhớ là cảnh chia ly đầy nước mắt.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Cả vùng Việt Bắc sát cánh cùng nhau bỗng nhiên hôm nay lại phải chia lìa. Ai cũng hụt hững, ai cũng mang trong mình nỗi buồn man mác. Ai cũng mong giành được chiến thắng, nhưng đễn khi chiến thẳng rồi thì họ lại phải xa nhau. “Tiếng ai” là một loại âm thanh không rõ từ đâu đến, cũng chẳng rõ là của ai, nhưng nó là tượng trưng cho tiếng nói của núi rừng và con người đang dạt dào sự nghẹn ngào, tiếc nuối. Giờ phút chia tay sao trôi nhanh quá. Người lính dẫu không muốn nhưng vẫn phải cất bước ra đi. Những bước đi cũng họ nặng nề và khó nhọc quá. Nó tiếng về phía trước nhưng lại không ngừng muốn quay trở lại, không phải xa lìa nơi mà họ đã gắn bó suốt tuổi trẻ. Những bước chân ấy mang theo the cả nỗi niềm lưu luyến, “bâng khuâng” cho người ở lại. Trong lòng người đi và kẻ ở là những cảm giác không tên, nghẹn ngào rơi nước mắt.
Và cuộc chia li mỗi lúc lại càng thêm sầu thẳm, quyến luyến.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Ở hai câu cuối của đoạn một, hình ảnh “áo chàm” hiện lên với những ý nghĩa to lớn. Nó là đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Bắc đang ra tiễn những anh bộ đội lên đường về xuôi. Ta bắt gặp cảnh chia tay với những cái bắt tay đầy nghẹn ngào. Họ cầm tay nhau mà chẳng ai có thể thốt lên một lời từ biệt. Có lẽ, họ muốn được nắm tay nhau mãi, ở cạnh nhau để cùng sẻ chia những cay đắng cuộc đời. Họ không biêt nói gì không phải không có gì để nói mà vì có quá nhiều những lời sự mà họ không biết bắt đầu từu đâu, nói như thế nào. Có lẽ, cài nắm tay tình cảm và ánh mắt họ nhìn nhau cũng đủ để cả hai bên thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Họ không nói nhưng tình cảm lại lan tỏa và được giãi bày qua ánh mắt họ giành cho nhau. Họ không cần nói nhưng ai cũng cảm nhận được nỗi niềm và sự nhớ thương bởi họ đã quá hiểu nhau suốt mười lăm năm gắn bó.
Bài thơ Việt Bắc và đặc biệt là tám câu đầu đã vẽ nên một cuộc chia ly đầy nước mắt và để từ đó, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm chân thành và sâu sắc nhất giữa quân và dân trong những năm chiến đấu gian khổ. Đó là thứ tình cảm cao cra, thiêng liêng đáng tự hòa và gìn giữ suốt cuộc đời.
Seen